Tập luyện là gì? Các công bố khoa học về Tập luyện
Tập luyện là quá trình thực hiện các bài tập vật lý hoặc hoạt động thể chất để cải thiện sức khỏe, tăng cường sức mạnh, nâng cao thể lực và tạo ra cơ bắp. Các h...
Tập luyện là quá trình thực hiện các bài tập vật lý hoặc hoạt động thể chất để cải thiện sức khỏe, tăng cường sức mạnh, nâng cao thể lực và tạo ra cơ bắp. Các hoạt động tập luyện có thể bao gồm động tác tăng cường cơ và cardio, yoga, bơi lội, chạy bộ, tập gym, tập thể dục nhịp điệu, vv. Tập luyện không chỉ mang lại lợi ích về sức khỏe mà còn giúp giảm stress, nâng cao tinh thần và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Tập luyện là một quá trình định kỳ và có mục tiêu, trong đó người tập thực hiện các bài tập và hoạt động thể lực để cải thiện sức khỏe và nâng cao thể lực. Quá trình này thường được lập kế hoạch và thực hiện thông qua sự hướng dẫn của huấn luyện viên, người chuyên về thể dục hay tự tập dựa trên các nguyên tắc cơ bản về tập luyện.
Các hoạt động tập luyện có thể bao gồm:
1. Cardio: Đây là các hoạt động như chạy bộ, đi xe đạp, bơi lội, nhảy dây, v.v., nhằm nâng cao nhịp tim, cải thiện hệ tuần hoàn máu và tăng cường khả năng hô hấp. Cardio cũng giúp giảm mỡ, đốt cháy calo và cải thiện sức mạnh tim mạch.
2. Tăng cường cơ: Đây là các bài tập như tập gánh xiếc, tập xà đơn, tập nâng tạ, tập thể dục không dụng cụ (như đẩy tay, gập bụng, squat, v.v.), nhằm tăng cường cơ bắp, cải thiện sức mạnh và sự linh hoạt.
3. Yoga: Đây là một loại hình tập luyện kết hợp giữa hít thở, tạo dáng và tập trung tâm. Yoga giúp tăng sự cân bằng, giảm căng thẳng, cải thiện linh hoạt và tăng cường sự tập trung.
4. Tập thể dục nhịp điệu: Đây là hoạt động tập thể dục kết hợp giữa động tác, nhịp điệu và âm nhạc. Tập thể dục nhịp điệu giúp tăng cường sức mạnh, cải thiện nhịp tim, đốt cháy calo và nâng cao khả năng thể chất.
5. Tập gym: Đây là việc sử dụng các thiết bị tập luyện trong một phòng gym, như máy chạy bộ, xe đạp tập, máy chạy bộ điện, vv., để tăng cường sức mạnh và nâng cao thể lực.
Quá trình tập luyện được điều chỉnh theo mục tiêu và khả năng cá nhân. Nó có thể bao gồm việc thiết lập kế hoạch tuần hoặc hàng tháng, lựa chọn các bài tập và hoạt động phù hợp, và thực hiện chúng đều đặn theo thời gian và cường độ phù hợp. Tập luyện đều đặn và kiên trì là yếu tố quan trọng để đạt được kết quả mong muốn từ quá trình tập luyện.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tập luyện":
Tập thể dục sức bền thường xuyên gây ra những thích nghi lớn trong cơ bắp vân. Những thích nghi này bao gồm sự gia tăng một phần nội bào ty thể và khả năng hô hấp của sợi cơ. Kết quả của việc gia tăng ty thể, bài tập với cường độ giống nhau dẫn đến một sự rối loạn trong cân bằng nội môi nhỏ hơn ở những cơ đã được tập luyện so với những cơ chưa được tập luyện. Các hậu quả chuyển hóa chính của những thích nghi của cơ bắp với bài tập sức bền là việc sử dụng glycogen cơ bắp và glucose trong máu diễn ra chậm hơn, phụ thuộc nhiều hơn vào quá trình oxi hoá mỡ và sản xuất lactate ít hơn trong suốt bài tập với một cường độ nhất định. Những thích nghi này đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường khả năng thực hiện các bài tập nặng kéo dài, điều này xảy ra như là phản ứng đối với việc tập luyện sức bền.
Tốc độ gia tăng tối đa của lực cơ [tốc độ phát triển lực (RFD)] có những hậu quả chức năng quan trọng vì nó xác định lực mà có thể được tạo ra trong giai đoạn đầu của co cơ (0–200 ms). Nghiên cứu hiện tại đã xem xét tác động của việc tập luyện kháng lực lên RFD co cơ và dòng ra thần kinh ("tín hiệu thần kinh") trong quá trình co cơ tối đa. RFD co cơ (độ dốc của đường cong lực-thời gian), xung lực (lực tích hợp theo thời gian), biên độ tín hiệu điện cơ (EMG) (điện áp trung bình) và tỷ lệ gia tăng EMG (độ dốc của đường cong EMG-thời gian) đã được xác định (tần số lấy mẫu 1-kHz) trong quá trình co cơ tĩnh tối đa (cơ tứ đầu đùi) ở 15 đối tượng nam trước và sau 14 tuần tập luyện sức mạnh kháng lực nặng (38 buổi). Lực cơ tối đa tĩnh [co cơ tự nguyện tối đa (MVC)] đã tăng từ 291.1 ± 9.8 đến 339.0 ± 10.2 N · m sau khi tập luyện. RFD co cơ xác định trong các khoảng thời gian 30, 50, 100 và 200 ms tính từ lúc bắt đầu co cơ đã tăng từ 1,601 ± 117 đến 2,020 ± 119 (P < 0.05), 1,802 ± 121 đến 2,201 ± 106 (P < 0.01), 1,543 ± 83 đến 1,806 ± 69 (P < 0.01), và 1,141 ± 45 đến 1,363 ± 44 N · m · s−1 (P < 0.01), tương ứng. Các tăng tương ứng cũng được quan sát thấy trong xung lực co cơ (P < 0.01–0.05). Khi chuẩn hóa so với MVC, RFD co cơ đã tăng 15% sau khi tập luyện (tại không đến một phần sáu MVC; P < 0.05). Hơn nữa, EMG của cơ tăng (P < 0.01–0.05) từ 22–143% (điện áp trung bình) và 41–106% (tỷ lệ gia tăng EMG) trong giai đoạn co cơ sớm (0–200 ms). Tóm lại, sự gia tăng sức mạnh cơ bắp bùng nổ (RFD và xung lực co cơ) đã được quan sát sau khi tập luyện sức mạnh kháng lực nặng. Những phát hiện này có thể được giải thích bằng sự cải thiện dẫn truyền thần kinh, như được chứng minh bởi sự gia tăng đáng kể về biên độ tín hiệu EMG và tỷ lệ gia tăng EMG trong giai đoạn đầu của co cơ.
Có một tín điều cho rằng khối lượng tập luyện cao hơn sẽ dẫn đến tỷ lệ chấn thương cao hơn. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho thấy việc tập luyện có tác dụng bảo vệ chống lại chấn thương. Ví dụ, các vận động viên thể thao đồng đội đã thực hiện hơn 18 tuần tập luyện trước khi bị chấn thương ban đầu có nguy cơ thấp hơn trong việc gặp chấn thương tiếp theo, trong khi khối lượng tập luyện mãn tính cao đã được chứng minh là giảm nguy cơ chấn thương. Thứ hai, trong một loạt môn thể thao, các phẩm chất thể chất phát triển tốt liên quan đến nguy cơ chấn thương thấp hơn. Rõ ràng, để các vận động viên phát triển các khả năng thể chất cần thiết để cung cấp tác dụng bảo vệ chống lại chấn thương, họ phải chuẩn bị để tập luyện chăm chỉ. Cuối cùng, cũng có bằng chứng rằng
Bài báo này mô tả mô hình ‘Nghịch lý phòng ngừa chấn thương trong tập luyện’; một hiện tượng mà các vận động viên quen với khối lượng tập luyện cao lại gặp phải
Việc lập kế hoạch và chỉ định khối lượng tập luyện cao một cách phù hợp nên cải thiện thể lực của các cầu thủ, và từ đó có thể
Việc tiêu thụ caffeine có thể làm chậm sự mệt mỏi trong quá trình tập luyện, nhưng các cơ chế vẫn chưa rõ. Nghiên cứu này được thiết kế để kiểm tra giả thuyết rằng sự phong tỏa của các thụ thể adenosine trong hệ thần kinh trung ương (CNS) có thể giải thích cho hiệu quả có lợi của caffeine đối với sự mệt mỏi. Các thí nghiệm ban đầu đã được thực hiện để xác nhận tác động của caffeine trong CNS và/hoặc chất hoạt hóa thụ thể A1/A2 5′- N-ethylcarboxamidoadenosine (NECA) đến hoạt động tự phát của cơ thể. Ba mươi phút trước khi đo hoạt động tự phát hoặc chạy trên máy tập, các con chuột đực được cho dùng caffeine, NECA, caffeine kết hợp với NECA, hoặc dung môi qua bốn lần được ngăn cách nhau khoảng 1 tuần. Trong hệ thần kinh trung ương, caffeine và NECA (qua đường tiêm trong não thất) đều liên quan đến tăng và giảm hoạt động tự phát, lần lượt, nhưng caffeine phối hợp với NECA không chặn được sự giảm do NECA gây ra. CNS caffeine cũng gia tăng thời gian chạy đến mệt mỏi lên 60% và NECA giảm nó xuống 68% so với dung môi. Tuy nhiên, không giống như các hiệu ứng về hoạt động tự phát, việc dùng trước caffeine đã hiệu quả trong việc phong toả sự giảm thời gian chạy do NECA gây ra. Không có sự khác biệt nào được tìm thấy sau khi sử dụng thuốc ở phía ngoài (qua đường tiêm trong phúc mạc). Kết quả cho thấy caffeine có thể trì hoãn mệt mỏi qua các cơ chế tác động trong CNS, ít nhất là một phần nhờ vào việc phong tỏa thụ thể adenosine.
Quercetin là một trong những nhóm lớn các hợp chất flavonoid polyphenolic tự nhiên đang được nghiên cứu vì những lợi ích sức khỏe rộng rãi của chúng. Những lợi ích này thường được cho là do sự kết hợp của hoạt động chống oxy hóa và kháng viêm, nhưng các bằng chứng in vitro gần đây cho thấy rằng sự cải thiện sinh tổng hợp ty thể có thể đóng một vai trò quan trọng. Hơn nữa, các tác động in vivo của quercetin đối với sinh tổng hợp ty thể và khả năng chịu đựng trong tập luyện vẫn chưa được biết đến. Chúng tôi đã nghiên cứu các tác động của việc cho ăn quercetin trong 7 ngày trên chuột đối với các dấu hiệu của sinh tổng hợp ty thể trong cơ vân và não, cũng như trên khả năng chịu đựng trong tập luyện. Chuột được phân ngẫu nhiên vào một trong ba nhóm điều trị sau: giả dược, 12,5 mg/kg quercetin, hoặc 25 mg/kg quercetin. Sau 7 ngày điều trị, chuột được giết mổ, và cơ soleus cùng não được phân tích sự biểu hiện mRNA của thụ thể kích thích sự tăng trưởng peroxisome-activated receptor-γ (PGC-1α) và sirtuin 1 (SIRT1), cùng với DNA ty thể (mtDNA) và cytochrome c. Thêm vào đó, một số chuột khác đã thực hiện việc chạy trên máy chạy bộ đến khi kiệt sức hoặc được đặt trong chuồng hoạt động tự nguyện, và các hoạt động tự nguyện của chúng (quảng đường, thời gian, và tốc độ tối đa) được ghi lại. Quercetin đã làm tăng sự biểu hiện mRNA của PGC-1α và SIRT1 (P < 0,05), mtDNA (P < 0,05) và nồng độ cytochrome c (P < 0,05). Những thay đổi này trong các dấu hiệu của sinh tổng hợp ty thể được liên kết với sự tăng lên cả khả năng chịu đựng tối đa (P < 0,05) và hoạt động chạy bộ tự nguyện (P < 0,05). Những lợi ích của quercetin đối với thể lực mà không cần đào tạo thể chất có thể có những ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu suất thể thao và quân sự, và cũng có thể mở rộng đến việc phòng ngừa và/hoặc điều trị các bệnh mãn tính.
Sự thiếu hụt hoạt động thể chất và béo phì đã tạo nên một đại dịch toàn cầu. Béo phì được đặc trưng bởi sự lắng đọng mô mỡ ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể; hiện nay đã rõ rằng mô mỡ còn hoạt động như một cơ quan nội tiết có khả năng tiết ra nhiều cytokine, được cho là có liên quan đến sinh lý bệnh của béo phì, kháng insulin và hội chứng chuyển hóa. Adipokine, hay còn gọi là protein nguồn gốc từ mô mỡ, đóng vai trò then chốt trong tình huống này. Việc tiết ra các adipokine viêm tiềm ẩn gia tăng dẫn đến một trạng thái viêm mãn tính đi kèm với kháng insulin và không dung nạp glucose. Thay đổi lối sống, bao gồm tăng cường hoạt động thể chất và tập thể dục, là phương pháp điều trị không dùng thuốc tốt nhất cho béo phì, vì những điều này có thể giảm kháng insulin, chống lại trạng thái viêm và cải thiện hồ sơ lipid. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy tập thể dục có tác động tích cực, một phần thông qua sự thay đổi trong hồ sơ adipokine; cụ thể, tập thể dục làm tăng tiết các adipokine kháng viêm và giảm các cytokine viêm. Trong bài báo này, chúng tôi sẽ mô tả ngắn gọn vai trò sinh lý bệnh của bốn adipokine quan trọng (adiponectin, leptin, TNF-
Triglycerid nội bắp (IMTG) vừa là một kho dự trữ lipid động có thể phát triển trong những thời kỳ có sự gia tăng lipid, vừa là nguồn axit béo có thể được sử dụng trong những thời gian tiêu tốn năng lượng tăng cao ở những người hoạt động. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã khảo sát các yếu tố lối sống ảnh hưởng đến hàm lượng IMTG, kết quả đạt được còn rất không nhất quán, và những nghiên cứu cố gắng làm sáng tỏ cơ chế phía sau chuyển hóa IMTG vẫn đang ở giai đoạn đầu. Chứng cứ hiện có hạn chế cho thấy rằng các enzyme chịu trách nhiệm cho sự phân hủy lipid ở cơ xương và tổng hợp IMTG đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định số phận của các axit béo và do đó là nồng độ của các chuyển hóa lipid và độ nhạy insulin của cơ xương. Bài đánh giá này cung cấp một tóm tắt về kiến thức hiện tại về tác động của tập luyện cấp tính và mãn tính cũng như khẩu phần năng lượng và thành phần chất dinh dưỡng đối với chuyển hóa IMTG và các tác động lên sức khỏe chuyển hóa.
Physiology hormone trong thể thao, các con đường rối loạn dẫn đến hội chứng tập luyện quá mức (OTS), và các hành vi lâm sàng cũng như sinh hóa mà bị thay đổi độc lập bởi sự hiện diện của OTS vẫn chưa rõ ràng. Mặc dù một số chỉ số của OTS đã được xác định gần đây, nhưng ảnh hưởng độc lập của OTS lên hormone và sự trao đổi chất chưa được đánh giá. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là khám phá những yếu tố tiên đoán độc lập chưa được công nhận của OTS và hiểu cách mà OTS tác động độc lập đến các hành vi của các thông số lâm sàng và sinh hóa.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10